Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013

Tổ ấm triệu đô của 3 sao U50 Vbiz quần áo

Đỉnh cao Bài ca giữ nước Những ngày đầu sáng tác, theo bà Minh Thái, Tào Mạt đã sớm biểu lộ sự duyên dáng, hóm hỉnh đặc trưng trong tiếng nói chèo. Nó cũng biểu thị năng lực tự học ghê gớm của ông. “Tào Mạt làm sàn diễn bắt đầu từ con số không. Về sự học hành chính quy, Tào Mạt thẹn ham thích là mình chưa bao giờ có chứng chỉ chính thức nào ngoài chứng chỉ học hết lớp hai bậc tiểu học... Tuy nhiên, khá nhiều lĩnh vực ông tự khai thông và hiểu biết sâu sắc. Tào Mạt thông tỏ lịch sử nước nhà qua các thời đại. Ông dùng thạo chữ Hán, chữ Nôm, thông tuệ những vấn đề triết học, mỹ học dân tộc”, bà Minh Thái cho biết. Tào Mạt được giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt 1 năm 1996. Theo bà Thái, câu chuyện tuyển hiền, công cuộc nhiếp chính, công cuộc chống ngoại xâm phương Bắc, công cuộc học đạo làm vua… của những kiệt hiệt đời Lý qua ngòi bút Tào Mạt trở thành ám ảnh, day dứt. Để rồi, lịch sử ở bộ ba chèo này nghe đâu chỉ đóng vai trò nguyên nhân. Nó trở nên những cái đinh để mắc vào đó những chiêm nghiệm của tác giả về thế cục hôm nay. “Và phải chăng Tào Mạt đã đưa lịch sử lên sân khấu không phải cho lịch sử mà chính là cho bữa nay. Khi tôi đặt câu hỏi ấy với Tào Mạt, ông gật đầu quả quyết về ý định của mình, về sự liên lạc giữa lịch sử và đương đại, về việc chọn chính thời Lý chứ không phải thời nào khác, và cũng chính bằng hình thức chèo chứ không phải là hình thức sàn diễn nào khác”, PGS-TS Minh Thái nhớ lại. Một số tác phẩm điển hình: Chị Tâm bến Cốc (kịch, 1960), Đường về trận địa (chèo, 1966), Đỉnh cao phía trước (chèo, 1967), bộ ba Bài ca giữ nước (chèo, 1979-1985) Với chèo, Tào Mạt đã giáp với cách nhìn thế cuộc đến “bật cả con ngươi mắt ra ngoài” như thế. Ông coi xét kỹ lưỡng từng vấn đề lịch sử trong vở diễn. Ông cũng xem xét phương thức sáng tạo chèo truyền thống. Chính thành ra, khi chèo hiện đại rơi vào việc “kịch hóa” đến mất cả sự ngẫu hứng thì trong vở diễn của ông, sự ngẫu hứng vẫn còn óng ánh. Óng ánh trong xúc cảm chủ đạo của nhân vật. Óng ánh trong cách bẻ làn nắn điệu rất dân dã. Tào Mạt sống rất giản dị. Tác giả Kiều Lan, một “trợ lý” của ông nhớ lại: “Căn phòng chú ở rộng chừng 12 m2, thì gần 1/4 là giá sách, cái giường một, bộ bàn ghế uống nước tự tạo bằng thùng đạn, một bàn làm việc và một ghế ba nan cong. Trên bàn làm việc để một khung ảnh nhỏ chụp Bác Hồ đọc bia Côn Sơn, và trên tường có treo một tấm ảnh đen trắng nhà văn Tào Ngu của Trung Quốc”.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét